Quang.name.VN – Nhà nước mới mở cái lộ quản-hạt cho xe-hơi chạy từ Sài Gòn xuống Cần Thơ. Nhơn-dân ở dọc theo lộ nầy, thuở nay cứ xẩn bẩn trong chốn thôn quê lo lập vườn làm ruộng, phần nhiều chưa thấy những cơ xảo[1] văn-minh phát hiện nơi thị-thành, bởi vậy hễ nghe tiếng xe-hơi chạy ồ-ồ trên lộ, thì công cấy công mạ đương loi-nhoi dưới ruộng đều xóng lưng xây mặt mà ngó, còn trong xóm trong làng thì con nít người lớn đều bỏ nhà chạy ra sân đứng mà coi.
♥ ♥ ♥ ♥ ♥
Server Dự phòng
Một buổi trưa, trời ui-ui, gió mát-mẻ, có một cái xe-hơi ở phía dưới Mỹ Thuận chạy lên, qua khỏi chợ Cai-Lậy một đổi rồi rề-rề ngừng ngay cái xóm nhà dựa lộ, bên mé tay trái.
Nhơn-dân trong xóm chạy túa ra đứng dài theo lề đường mà coi, đờn-ông có, đờn-bà có, bà-già có, con-nít có, song ai nấy đều đứng xa xa mà ngó chớ không dám lại gần, không hiểu tại họ sợ cái mầu-nhiệm của món cơ-xảo lạ lùng, hay là tại họ kiêng hơi oai nghiêm của người chủ xe sang trọng.
Cái xe còn mới tinh nên kèn cản chói sang lòa, lại sơn màu lá cây sậm nên coi mặn-mòi đẹp-đẽ.
Người sớp -phơ mở cửa xe leo xuống, mặc đồ tây trắng, mang giày tây trắng, đội kết cũng màu trắng, giơ tay ngoắt đám dân làng và kêu mà nói rằng: “Ê! mấy người lại đây đặng hỏi thăm một chút coi nào”.
Bộ oai nghiêm, giọng cứng-cỏi, ai nấy tưởng hoặc quan lớn đi vãng dân vãng làng, hoặc đội quản đi kiếm bắt đạo-tặc, nên trơ mắt nhìn nhau, không dám bước lại. Người sớp-phơ kêu nữa rằng: “Ai đó, đi lại đây một người cho bà lớn hỏi thăm một chút; kêu sao đứng trơ trơ đó”.
Ông cai-lân Cư, tuổi đã 64, mà sức còn mạnh-mẽ, tóc xợp-xạp, râu le-the, nhìn mặc một cái quần vải trắng cũ trổ màu luốc-luốc với một cái áo quảng-đông vải xiêm tay rộng, vai có vắt một cái khăn vằn sọc xanh sọc trắng, ông nghĩ mình có chức sắc lớn nhỏ chút đỉnh trong ấp, không lẽ không đởm-đương trong cơ hội nầy mà tỏ dấu trên trước trong xóm, bởi vậy ông nắm cái khăn vằn mà lau miệng, tằng-hắng một tiếng mà làm dạn-dĩ, rồi thủng-thẳng đi lại chỗ xe đậu. Mấy người đứng với ông, ngó thấy ông đi thì đi theo, có lẽ không nỡ để cho ông đi một mình, mà cũng có lẽ muốn coi cái xe hơi cho tường-tận, song kẻ nhát người dạn nên đi rải-rác sau xa.
Ông Cai-lân đi gần tới thì người sớp-phơ nạt rằng: “Dữ hôn! Kêu lại hỏi một chút, mà làm bộ đứng đẳng! Ông ở đây có làm chức gì hay không?”
Ông bị rầy, liền chấp tay khum lưng mà xá và đáp rằng: “Thưa, tôi làm chức Cai-lân”.
Người sớp-phơ thấy ông lóm-khóm sợ-sệt thì tức cười nên đổi giọng nói dịu rằng: “À, ông làm Cai-lân! Ông đi riết lại gần đây cho bà lớn hỏi thăm một chút, ông Cai-lân”.
Ông Cai-lân lại tới, thấy trên xe có ba đứa nhỏ với một bà đầu choàng khăn màu trứng gà, mình mặc áo màu xám tro. Ông nghe nói “bà lớn” thì sợ, nên vừa thấy thì rúc cái khăn vằn vắt vai, vò tròn trong tay mà xá.
Người đờn-bà ngồi trên xe mà sớp-phơ xưng hô “bà lớn” đó, gặc đầu rồi hỏi rằng: “Ông ở xóm nầy, ông biết Hương thân Luông hay không?”.
Ông Cai-lân đứng ngơ-ngáo, dường như không hiểu câu hỏi. Người đờn-bà nói tiếp rằng: “Hương-thân Luông thiệt tên là Phạm-gia-Luông, anh ruột của ông Phủ Phạm-gia-Tăng, nghe nói hồi trước ở xóm dựa bên chợ Cai-Lậy đây, ông không biết hay sao?”
Ông gục-gặc đầu mà đáp rằng: “Ờ, ở! Tưởng hỏi ai, chớ Hương-Thân-Luông tôi biết lắm, sao lại không biết. Hương-Thân-Luông chết hồi năm tức[2] lận mà”.
Người sớp-phơ bước lại vỗ vai ông Cai-lân mà nói rằng: “Ê! ông Cai-lân, bà lớn đây là bà Phủ ở trên Saigon, ông trả lời phải có phép tắc, lơ-mơ ở tù chết, chớ không phải chơi đâu”.
Ông Cai-lân day lại ngó sớp-phơ rồi xá bà lớn mà nói rằng: “Xin lỗi bà lớn, tôi quê mùa không hiểu”.
Bà lớn cười mà đáp rằng:
-Phải, Hương-Thân-Luông chết lâu rồi, tôi biết. Mà vợ con còn ở đây hay không?
-Bẩm bà lớn, vợ cũng chết lâu rồi.
-Ủa, chết hồi nào?
-Bẩm, thím Hương-Thân chết hồi năm kia, năm nay mãn khó rồi.
-Cơ khổ dữ hôn! Vậy mà tôi có hay đâu! Chỉ chết còn con bây giờ ở đâu?
-Vợ chồng có một đứa con gái; hồi thím mất, Cai-tuần Kim thấy con nhỏ bơ-vơ chú thương, nên chú đem về chú nuôi mấy năm nay.
-Cai-tuần Kim nhà ở gần đây hay không?
-Bẩm, nhà ở đằng trước kia, ngay ở chỗ cây cột dây-thép thứ nhì đó.
-Con nhỏ bao lớn?
-Bẩm, năm nay nó được 15-16 tuổi.
-Đâu, ông làm ơn dắt xe tôi lại nhà Cai-tuần Kim một chút đặng coi con nhỏ ra làm sao. Tôi đây là bà Phủ Tăng, em dâu của Hương-Thân-Luông. Ông biết quan lớn của tôi hay không?
-Bẩm, tôi biết hồi nhỏ. Mấy chục năm nay quan lớn không có về trong làng, nên gặp chắc tôi quên.
Sớp-phơ mở cửa xe và biểu ông Cai-lân leo lên đặng đi chỉ nhà Cai-tuần Kim. Ông Cai-lân du-dự, ngó cái xe muốn leo lên, song mại hơi nói rằng: “ Tôi đi bộ được mà”. Sớp-phơ nắm cánh tay ép ông leo lên và nói rằng: “Ông đi bộ theo sao kịp xe. Ông lên ngồi đặng chỉ nhà cho tôi ngừng chớ”.
Ông Cai-lân Cư lên ngồi dựa bên Sớp-phơ, trong ngực phập-phồng; chừng nghe máy rồ ông càng thêm sợ, nên quíu hai tay chưn.
Xe rút chạy; mấy người đứng dọc theo lề đường thấy ông Cai-lân ngồi trên xe thì thấy làm lạ, không hiểu tại sao ông lại được đi xe, nên chong mắt ngó theo mà hỏi nhau.
Ông Cai-lân mới được ngồi xe-hơi lần thứ nhứt, ông lấy làm đắc ý, một tay cầm cái khăn vằn, một tay vuốt râu, miệng chúm-chím cười. Ông chỉ phía trước mà nói với sớp-phơ rằng: “Cậu ngừng ngay cái nhà, chỗ cây cột dây-thép trước kia, chỗ có bụi cây chưn-bầu[3] đó. Nhà Cai-tuần Kim ở đó đa”.
Ông nói dứt lời, thấy có một đứa con gái, chừng 15-16 tuổi, đương đứng trên lề đường mà coi xe, ông liền ngoắt và kêu mà nói lớn rằng: “Phục, có bà lớn Phủ kiếm mầy đây nè; trở về nhà cho mau. Trở về”.
Ông lại day lại phía sau mà nói với bà Phủ rằng: “Bẩm bà lớn, con nhỏ đó là con của chú Hương-Thân.”
Bà Phủ gặc đầu, rồi xe ngừng ngay một cái nhà lá ba căn xông, nhà dọn vén-khéo sạch sẽ, trước có sân để đạp lúa, hai bên hè có trồng rau ớt chút đỉnh.
Sớp-phơ mở cửa xe. Ông Cai-lân leo xuống, miệng cười ngỏn-ngoẻn. Ông ngó một đám người ta đương đứng trong sân và kêu mà nói lớn rằng: “Chú Cai-tuần, có bà lớn Phủ kiếm chú đây. Chú bước ra cho bà lớn biểu”. Ông bước lại đứng gần chỗ bà Phủ ngồi mà nói rằng: “Có hai vợ chồng chú Cai-tuần Kim ở nhà đủ hết kia. Để tôi kêu chú ra đây cho bà lớn hỏi thăm”.
Bà Phủ nói: “Thôi, để tôi vô nhà. Nhà ở gần mà”. Bà vừa nói vừa leo xuống đất. Ba đứa nhỏ cũng theo bà mà leo xuống, một đứa con gái chừng 13-14 tuổi, và hai đứa con trai chừng 9-10 tuổi, con gái mặc áo tím quần trắng, đi giày thêu nhổn-nha, còn con trai mặc đồ tây xám, đầu đội kết đen, coi chẩm-hẩm lắm.
Bà Phủ trạc chừng 45 tuổi, nhỏ thó, thấp người, mặt dồi phấn trắng toát, chơn mày cạo nhỏ rí, nhưng mà cặp mắt oai nghiêm, tướng đi yểu-điệu. Ông Cai-lân Cư thấy Cai-tuần Kim tới lộ thì nói rằng: “Bà lớn Phủ đây là em dâu của chú Hương-Thân-Luông hồi trước. Bà lớn kiếm chú mà hỏi thăm con Phục. Biểu bày trẻ chạy kêu con Phục về đây coi. Tôi mới thấy nó đi phía trên kia.”
Cai-tuần Kim chừng 40 tuổi, đen-đúa, vạm-vỡ, nghe nói bà Phủ thì lột khăn mà xá và nói rằng: “Mời bà lớn vô nhà”. Anh ta day lại kêu vợ mà biểu vô quét ván trải chiếu.
Bà Phủ với mấy đứa nhỏ đi theo Cai-tuần Kim mà vô sân. Ông Cai-lân Cư ngoắt kêu con Phục om-sòm, biểu chạy về cho mau. Còn dân trong xóm tựu lại, tốp đứng chung quanh cái xe-hơi mà coi, tốp đi theo coi bà Phủ và mấy đứa nhỏ.
Bà Phủ vô nhà vừa ngồi, thì ông Cai-lân dắt con Phục vô mà nói rằng: “Bẩm bà lớn, con nhỏ nầy là con của chú Hương-Thân-Luông đây”. Ông lại day qua mà nói với con nhỏ rằng: “Bà lớn đó là thím dâu của cháu đa. Tội nghiệp quá! nghèo khổ, côi-cút, có cô bác giàu sang mà có biết đâu mà đi tìm. Bà lớn phải thất công đi tìm cháu như vầy, thiệt bà lớn nhơn đức quá”.
Bà Phủ thấy con Phục mặc áo quần bằng vải đen cũ xì, đầu tóc rối nùi, tay chưn lem-luốc, nhưng mà gương mặc sáng rỡ như trăng rằm, nước da trắng trong, hai môi đỏ chói, chơn mày nhỏ mà lại cong-vòng như vẽ, miệng tự nhiên mà cũng như chúm-chím cười hoài, hai bàn tay ngón nhỏ mà dài, cặp con mắt long-lanh đa tình đa cảm. Bà thấy nhan sắc ấy thì bà khen thầm trong bụng, nên bà gục-gặc đầu mà hỏi rằng: “Má của cháu mất hồi nào? Sao cháu không gởi thơ cho chú thím hay?”
Con Phục đáp rằng:
-Thưa, cháu không biết chú thím ở đâu, nên không biết làm sao mà gởi thơ.
-Cháu được mấy anh em?
-Thưa, cháu có một mình, không có anh em nào hết.
-Năm nay cháu mấy tuổi?
-Thưa, 16 tuổi.
-Từ ngày má cháu mất rồi cháu ở với hai vợ chồng anh Cai-tuầm Kim đây phải hôn?
-Thưa, phải. Mợ Cai tuần thương cháu nên đem cháu về nuôi.
-Có bà con chi hay không?
-Ở một xóm thuở nay quen biết cha với má cháu, chớ không có bà con.
Cai-Tuần Kim chen vô nói rằng: “Thưa bà lớn, ở trong xóm quen biết nhau lâu. Chị Hương Thân mất, vợ chồng tôi thấy cháu bơ-vơ tội nghiệp, nên đem nó về làm phước”.
Bà Phủ cười mà nói rằng: “Anh không có bà con, mà anh ở như vậy, thiệt là anh tốt lắm. Quan lớn của tôi ổng hay chắc là ổng cảm ơn anh biết chừng nào. Hồi trước anh Hương-Thân ở nhiều cái không phải, quan lớn của tôi ổng giận, nên ổng không chịu nhìn ảnh là anh em nữa. Tuy vậy mà chừng nghe ảnh mất rồi thì vợ chồng tôi cũng buồn, không biết vợ con ảnh ra làm sao. Mấy năm nay tôi có ý đi kiếm tìm mẹ con chỉ đặng đem về Saigon rồi giúp vốn cho chỉ làm ăn. Ngặt vì đường-sá cách-bức, đi không tiện, nên không biết làm sao. Nay nhờ nhà-nước mở cái lộ nầy cho xe hơi chạy, tôi về Cái-Vồn, quan lớn tôi dặn tiện đường phải ghé kiếm mẹ con chỉ. Thiệt chỉ mất, vợ chồng tôi không hay, chớ nếu tôi hay, thì dầu xa-xuôi cách nào cũng xuống đặng trước lo chôn-cất chỉ, sau đem cháu về nuôi, ai nỡ để nó bơ-vơ như vầy. Vợ chồng anh Cai-tuần ra công nuôi nó mấy năm nay, thiệt là phước đức lớn lắm. Thôi, như tôi không gặp thì không nói gì; bây giờ tôi gặp cháu tôi đây, tôi nói với hai vợ chồng cho tôi rước nó về Saigon. Công ơn hai vợ chồng nuôi nó mấy năm nay, quan lớn tôi không quên được đâu. Hễ tôi về tôi nói lại đây thì chắc quan lớn tôi sẽ xuống mà cám ơn”.
…………………….
Tác giả: Hồ Biểu Chánh
Giọng đọc: Nam Phong – Phượng Dung
Bạn muốn gửi Bình luận