Quang.name.VN – Cuộc chợ đêm Sài Gòn đã mở cửa bữa trước rồi, mà tối bữa sau mới 7 giờ, mấy nẻo đường vòng theo chợ thiên hạ nườm nượp, kẻ ngồi xe, người thả bộ, đổ vô mấy cửa, riu riu như bị gió đùa, cuồn cuộn như dòng nước chảy.
Tại cái cửa lớn, người ta tụ lại chật nứt, trai chải đầu láng nhuốc, gái thoa môi đỏ lòm, già ngậm thuốc điếu phì phà, khói bay tưng bừng, mẹ dắt bầy con, đứa chạy trước nghênh ngang, đứa theo sau núc ních, kêu nhau inh ỏi. Tốp chen lấn mua giấy, tốp ùn ùn vô cửa, người mặc y phục đàng hoàng chung lộn với kẻ bình dân lao động không ái ngại chi hết, mà coi ra thì trên gương mặt mỗi người đều có vẽ hân hoan hớn hở, vì ai cũng biết chắc trong giây phút nữa đây sẽ được xem xét thấy nhiều cuộc vui để thỏa chí háo kỳ, hoặc để tạm quên các sự khổ cực của loài người trên trần thế.
Ở trong chợ đèn điện đốt sáng trưng, lại thêm máy nói cất giọng ồ ề rao hàng om sòm, làm cho thiên hạ càng rộn rực chen nhau mà vô riết, dường như sợ vô trễ một chút rồi giảm bớt sự vui nhiều lắm vậy. Cậu Châu Tất Ðắc mình mặc đồ âu phục bằng nỉ màu xám có sọc đen, may thật khéo, đầu không đội nón, tóc uốn quăn, chưn mang giày bố trắng mũi da vàng, cậu mua một miếng giấy rồi cậu thấy thiên hạ náo nức giành nhau mà vô cửa, thì chúm chiếm cười. Cậu để tự nhiên cho dòng nước người đưa đẩy cậu vô cửa, rồi cậu chấp tay sau đít, thủng thẳng đi ngay tới hoài, mắt ngó mấy gian hàng hai bên, đi mà không định đi đâu, ngó mà không để ý đến chỗ nào.
Nam thanh nữ tú dập dều, hàng hoá dọn gian nào cũng đẹp, nhưng mà cậu Tất Ðắc ngơ ngáo như đi trong đống cát, gặp gái đẹp không vui, mà thấy đồ tốt cũng không khoái. Cậu đi mút khúc đường ngay đó, rồi mới quẹo qua khúc đường khác, thì có một người đờn bà, trạc[1] chừng 35 tuổi, cao lớn mà không dông dãy[2], mình mặc một bộ đồ lụa trắng, tay cầm một cái bốp da vàng, dừng ngay trước mặt cậu và cười mà hỏi rằng: “Cậu đi đâu vậy hử?”
Tất Ðắc thấy cô Cẩm Hương là người gốc ở một tỉnh với cậu, hồi trước cô làm nữ giáo sư, vì cớ gì đó không rõ mà xin từ chức rồi bây giờ đương cai quản một trường tư kêu là “NỮ HỌC HIỆU” tại chợ Cầu kho, thì cậu cũng cười và đáp rằng:
– Vậy chớ chị đi đâu đó mà chị hỏi tôi?
– Tôi có dọn một gian hàng để bán đồ nữ công trong hội chợ, nên tôi phải vô mà coi sóc chớ phải tôi thả rều[3] cả ngày, rồi thả thâm[4] tới ban đêm như cậu vậy sao?
– Chị mới bị kỳ đà níu chưn nên chị không thả rều nữa được, chớ hồi trước chị giỏi gì hơn tôi.
– Cậu là quỷ. Kỳ đà ở đâu?
– Kỳ đà dưới Trà Vinh đó.
– Ối, khéo nói xàm[5] hoài! Chồng của người ta mà sao lại kêu là kỳ đà[6]?
– Hử? Chồng … Chồng … Chị có biết “chồng” là nghĩa gì hay không mà chị dám dùng tiếng ấy.
– Ê! Ðừng có nói điên nào! Chồng là chồng chớ chồng nghĩa là gì.
– Không. Tôi hỏi thiệt chớ. Chị làm bà Ðốc học mà chị cắt nghĩa chữ “chồng” không được, thì tôi kêu là kỳ đà chị không được phép rầy tôi.
– Thôi, để tôi cắt nghĩa chữ “chồng” cho cậu nghe. Chồng là một người đờn ông, hoặc trẻ, hoặc già, vì thương yêu một người đờn bà nên kết tóc trăm năm với người đờn bà ấy, lại lo nuôi dưỡng người đờn bà ấy trọn đời. Tôi cắt nghĩa vậy đó cậu chịu hay chưa?
– Chưa chịu.
– Tôi cắt nghĩa như vậy mà không chịu, thôi cậu giỏi thì cậu cắt nghĩa cho tôi nghe đi.
– Chị cắt nghĩa chữ “chồng” mà chị bỏ sót mấy tánh chất quan trọng nhứt của chữ đó nên không đủ ý nghĩa.
– Sót cái gì?
– Sai điều gì chị không biết hay sao. Thôi để tôi giải nghĩa chữ “chồng” lại cho chi nghe. Chồng là một người đờn ông, hoặc trẻ hoặc già, vì thương yêu một người hoặc con gái, hoặc đờn bà, muốn kết tóc trăm năm với người ấy, nên cậy mai dong[7] nói dùm mà cưới, có rước chánh lục bộ lập tờ hôn thú theo luật, rồi trọn đời phải nuôi dưỡng bảo bọc người vợ luôn luôn. Chị bỏ sót đám cưới và hôn thú.
– Ối! Cậu đi Tây học sáu bảy năm mà cậu chưa mở trí, cậu còn thủ cựu quá! Ðời nầy người ta tấn hoá nhiều lắm rồi, hễ đờn ông với đờn bà thương nhau nếu không có điều chi trở ngại, thì người ta kết làm vợ chồng, cần gì phải làm đám cưới, cần gì phải lập hôn thú. Cậu còn quê quá.
– Chị muốn nói theo cái thuyết “tự do kết hôn” thì tự ý chị, tôi không cản. Nhưng mà tự do kết hôn là đờn ông thong thả mà chọn lựa người vợ theo ý muốn, song bề nào cũng phải lập hôn thú thì mới kêu là chồng, là vợ được, chớ nếu không có hôn thú thì người ta kêu đờn ông là “kỳ đà”, đờn bà là “mèo” chị hiểu chưa?
– Ðừng nói xàm! Cái gì mà “kỳ đà”.
– Vậy chớ chị nói người ở Trà Vinh đó là chồng chị hay sao?
– Ừ, chồng của tôi đó đa.
– Nếu chị nói người đó là chồng thì tôi xin giải nghĩa chữ “chồng” của chị như vầy: “Chồng là một người đàn ông có vợ có con rồi, có điền đất lớn, vì thương yêu một người đàn bà xinh đẹp và lanh lợi, nên giúp vốn cho người ấy đôi ba ngàn làm ăn, mỗi tháng tới thăm một hai lần, mỗi lần ở năm ba bữa, chừng về cho một hai tấm giấy xăn[8]. Ðó, chữ “chồng” của chị nghĩa như vậy đó phải không?
– Cậu quỉ nầy cứ kiếm chuyện hoài! Thôi, bỏ chuyện đó đi. Tôi hỏi vậy chớ cậu đi đâu, sao cậu không trả lời?
– Tôi thả rều cũng như chị bây giờ đó, chớ biết đi đâu mà nói.
– Tôi nói tôi vô chợ đặng coi sóc gian hàng của tôi, chớ có phải tôi thả rều như cậu vậy đâu.
– Gian hàng của chị ở đâu?
– Kia kìa. Ði hết khúc đường nầy, quẹo qua tay trái, tới ngả ba quẹo qua tay mặt nữa là gặp gian hàng của tôi.
– Dữ hôn! Gian hàng của chị đằng kia, còn chị đi lêu khêu đằng nầy, cách mấy trăm thước, mà chị dám nói chị vô đây đặng coi sóc gian hàng chớ. Thế khi con mắt của chị có điện vô tuyến hay sao mà chị coi xa dữ vậy?
– Thiệt cậu là quỉ, nên hễ cậu gặp tôi thì kiếm chuyện kích bác tôi hoài.
– Tại chị rầy tôi thả rều, nên tôi phải vạch cho chị thấy rõ chị cũng như tôi chớ.
Cô Cẩm Hương cười ngất. Cô ngó y phục của cậu Tất Ðắc rồi cô lại nói rằng:
– Cha chả! Bữa nay đi coi chợ đêm, diện bộ đồ tốt dữ!
– Ê! Chị đừng có khen vội, phải hỏi đi hỏi lại rồi sẽ khen.
– Hỏi cái gì?
– Phải hỏi coi đồ của ai đã.
– Tôi thấy cậu bận đồ tốt thì tôi khen cậu chớ hỏi ai bây giờ.
– Tuy đồ tốt, nhưng mà không phải đồ của tôi. Bộ đồ nầy là của anh em bạn tôi, ảnh đi coi hôm qua, bữa nay ảnh ở nhà, nên ảnh cho mượn bận, tôi đi đây.
– Ê! Chuyện như vậy mà nói om sòm không sợ người ta nghe người ta cười hay sao?
– Ủa! Cười cái gì, tôi không có đồ, tôi mượn đồ của anh em tôi bận, có chi đâu mà cười. Tôi mượn, chớ tôi ăn cắp ăn trộm gì hay sao mà xấu hổ.
– Cậu cứ vậy hoài không biết tới chừng nào cậu mới chịu đổi tánh nết!
– Ðổi chi vậy?
– Phải sửa tánh nết theo thiên hạ, đặng ở đời cho hợp với người ta chớ.
– Tánh nết của thiên hạ khác hơn tánh nết của tôi hay sao?
– Ai mà tánh nết dị kỳ như cậu vậy!
À, nếu tánh nết của thiên hạ khác hơn tánh nết của tôi, thì chị phải biểu thiên hạ sửa lại mà ăn ở giống theo tôi, chớ sao chị biểu tôi sửa. Chị lấy bằng cớ nào mà chị dám quả quyết tánh nết của thiên hạ tốt, còn tánh nết của tôi xấu. Tôi mượn áo quần tôi bận, tôi nói tôi mượn, tôi không sợ ai mà giấu giếm. Còn họ cũng mượn mà bận như tôi, song họ lại làm phách, đi ra đường họ vinh mặt vinh mày, khoe khoang đồ của họ tốt, chị nghĩ thử coi cử chỉ của tôi phải, hay của thiên hạ phải? Nè, xin chị hiểu dùm, những đồ gì, vật gì mình dùng, mà không phải sức mình làm cho có tiền – và làm có tiền một cách chánh trực – mà mua, thì đều là đồ mình mượn hết thẩy, lại có khi là đồ của mình ăn trộm hoặc ăn cướp nữa, chị biết hôn?
– Nói như vậy, hèn chi chúng ghét phải lắm.
– Ai ghét tôi đâu?
– Tôi ghét cậu.
– Sao mà ghét?
– Hễ mở miệng thì nói giọng khinh thế ngạo vật, nên tôi ghét chớ sao?
– Vậy chớ phải nói thế nào chị mới thương? Thôi để tôi nói như vầy: Em kính chào bà đốc trường Nữ Lưu học hiệu. Ðương giữa lúc công chúng ồn ào ca tụng tài đức của bà, mà em được gặp bà, bà lại không quên em là một đứa đồng hương hèn hạ, thì em vinh diệu không biết chừng nào. Công chúng ngợi khen bà là vì họ thấy bà tuổi đã trên ba mươi lăm mà nhan sắc vẫn còn đẹp như gái xuân xanh, họ thấy bà là một đứng liễu bồ mà bà đủ tài đủ trí tự xướng ra tạo thành một sự nghiệp kinh dinh ở chốn Sài Gòn. Họ khen như vậy bất quá họ thấy bề ngoài mà khen đó thôi, bởi vậy em cho những lời khen ấy chưa đúng. Theo con mắt của em, thì em thấy bà còn nhiều cái tài, nhiều cái đức khác nữa, thiên hạ không thấy nổi. Bà xuất thân trong đám bình dân, mà bà thoát khỏi cái địa vị hèn hạ rồi leo lên ngồi cái địa vị cao sang, cũng đi xe hơi, cũng đeo hột xoàn, cũng được thiên hạ kêu “bà”, sự thăng cao ấy nếu không có cái tài đặc biệt như bà thì không thế gì mà làm được. Mà được lên cái địa vị cao rồi, bà không vong bổn như thiên hạ, bà ngó xuống mà thương xót đoàn phụ nữ, bà muốn dìu dắt em cháu cho chúng nó bước vào đường phải, nên bà không nệ tốn công hao của, bà lập trường dạy em cháu cho chúng nó thông chữ nghĩa, biết nữ công đặng chừng lớn khôn chúng nó có gia thất, thì chúng nó biết chữ, có nghề đặng tiện bề sinh hoạt! …Ðó, tôi nói như vậy đó, chị thương tôi hay không?
Giọng đọc: Nam Phong – Phượng Dung
Bạn muốn gửi Bình luận